(KTSG Online) – Chính phủ dự kiến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp khoảng 293.405 tỉ đồng trong năm 2023, trong đó gần 65% là trả nợ gốc và khoản trả nợ lãi khoảng 35%.
Nợ công trong giới hạn an toàn
Tại báo cáo gửi Quốc hội về nợ công năm 2022 và dự kiến năm 2023, Chính phủ dự kiến huy động vay 644.515 tỉ đồng trong năm 2023, tăng khoảng 27.000 tỉ đồng so với 2022 và hơn 130.210 tỉ đồng so với 2021.
Nguồn huy động kết hợp linh hoạt các công cụ như phát hành trái phiếu Chính phủ; vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài. Trường hợp cần thiết sẽ tính tới vay từ các nguồn tài chính hợp pháp khác hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ trực tiếp cho Ngân hàng Nhà nước.
Với nguồn lực huy động trên, Chính phủ dự kiến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp khoảng 293.405 tỉ đồng, trong đó gần 65% là trả nợ gốc và khoản trả nợ lãi khoảng 35%. Nghĩa vụ trả nợ vay về cho vay lại khoảng 33.648 tỉ đồng, gồm trả gốc khoảng 25.565 tỉ đồng và trả lãi 8.083 tỉ đồng.
Chỉ tiêu trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách vẫn trong mức trần 25% Quốc hội phê duyệt. Dư nợ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay trong nước khoảng 10.073 tỉ đồng, bảo lãnh vay nước ngoài khoảng 116.564 tỉ đồng.
Ngoài ra, Chính phủ sẽ không bảo lãnh mới cho các chương trình, dự án để vay vốn trong nước, nước ngoài.
Với năm 2022, Chính phủ cho biết năm nay huy động vốn đạt khoảng 619.492 tỉ đồng. Trong đó, vay cân đối ngân sách trung ương chiếm khoảng 97%, còn lại vay ODA, ưu đãi nước ngoài về cho vay lại với hơn 19.440 tỉ đồng.
Với huy động vốn trong nước, khoảng 92% vốn từ trong nước được huy động qua phát hành trái phiếu Chính phủ.
Theo Chính phủ, bối cảnh thu ngân sách trung ương năm 2022 vượt dự toán và giải ngân vốn đầu tư công chậm, nên phát hành trái phiếu Chính phủ những tháng cuối năm sẽ phù hợp, đáp ứng yêu cầu chi ngân sách.
Với huy động vốn nước ngoài, các khoản vay ưu đãi theo hiệp định vay đạt gần 185 triệu đô la Mỹ trong 9 tháng đầu năm, Mức lãi suất vay là 0,1% một năm trong 40 năm, ân hạn 10 năm. Từ nay tới cuối năm dự kiến có thêm 188 triệu đô la từ khoản vay này.
Tổng trả nợ của Chính phủ ước khoảng 324.583 tỉ đồng trong năm 2022, gồm 294.300 tỉ đồng trả nợ trực tiếp, 30.283 tỉ đồng trả nợ vay nước ngoài về cho vay lại.
Với các khoản vay trong nước, nghĩa vụ trả nợ chiếm trên 82% tổng trả nợ của ngân sách trung ương. Tuy nhiên, chỉ tiêu trả nợ trực tiếp Chính phủ năm nay so với thu ngân sách khoảng 18-19%, dưới mức trần 25% Quốc hội cho phép.
Ngân sách địa phương năm nay vay 19.184 tỉ đồng. Khoản trả nợ gốc khoảng 3.309 tỉ đồng; trả nợ lãi, phí 1.818 tỉ đồng. Bội chi ngân sách địa phương dự kiến là 15.875 tỉ đồng, giảm 9.125 tỷ so với dự toán Quốc hội quyết định.
Đánh giá về tình hình nợ công năm 2022, Chính phủ cho hay các chỉ tiêu được kiểm soát chặt chẽ, trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn. Việc này giúp đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, tạo dư địa dự phòng cho chính sách tài khóa ứng phó với rủi ro vĩ mô.
Về tỷ trọng nợ, dư nợ trong nước tăng lên, chiếm 70% dư nợ Chính phủ, chủ yếu là trái phiếu Chính phủ kỳ hạn dài với thời gian đáo hạn trung bình khoảng 13,78 năm tính đến 14-9-2022.
Nợ nước ngoài chủ yếu vẫn là vay ODA, vay ưu đãi dài hạn. Tuy nhiên, Việt Nam đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình, nên các điều kiện vay kém ưu đãi hơn, sát thị trường với lãi suất thả nổi. Dự báo các hiệp định vay ưu đãi tới đây sẽ thu hẹp hơn, nhằm giảm rủi ro tỷ giá, lãi suất và đảm bảo an ninh tài chính.
Ngoài ra, nợ được Chính phủ bảo lãnh tiếp tục xu hướng giảm mạnh, từ mức 8,8% GDP năm 2015 xuống còn khoảng 3,2% GDP năm 2022.
Chủ nợ của Chính phủ khá đa dạng. Với nợ trong nước, nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu Chính phủ đã phát triển theo hướng tăng vai trò nhà đầu tư dài hạn, giảm dần tỷ trọng nắm giữ trái phiếu Chính phủ của các ngân hàng thương mại.
Dư nợ vay bằng đồng Việt Nam chiếm phần lớn danh mục nợ Chính phủ, dự kiến đạt trên 70% đến hết năm 2022. Kỳ hạn phát hành bình quân của danh mục nợ tiếp tục duy trì tương đối dài, lãi suất hợp lý, phù hợp với diễn biến thị trường.
Chính phủ đánh giá, tái cơ cấu danh mục trái phiếu Chính phủ qua kéo dài kỳ hạn phát hành, bình quân 13,78 năm và duy trì thời gian đáo hạn bình quân ở mức hợp lý (9,13 năm) đã giúp giảm rủi ro tái cấp vốn (đảo nợ) của ngân sách.
Rủi ro từ xu hướng gia tăng lãi suất
Bên cạnh những nét tích cực, Chính phủ cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế như giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu, nhất là với vốn ODA, dự kiến chỉ đạt 65% kế hoạch. Theo đó, một số Bộ, ngành, địa phương đề xuất trả kế hoạch vốn năm 2022 tính tới cuối tháng 9, gồm 6 Bộ, ngành đề xuất trả 1.669 tỉ đồng, 9 địa phương đề nghị trả 9.970 tỉ đồng.
Ngoài ra, áp lực tăng vay, điều kiện thị trường vốn quốc tế và trong nước không thuận lợi dẫn đến lãi suất tăng, trong đó có lãi suất trái phiếu Chính phủ.
Phân tích kỹ hơn, Chính phủ cho biết, biến động trên thị trường tiền tệ, ngoại hối đã tác động mạnh tới tâm lý các nhà đầu tư. Lãi suất giao dịch trái phiếu Chính phủ vừa qua tăng mạnh trong 3 tháng đầu năm, sau đó ổn định rồi tăng trở lại từ giữa tháng 7.
Hiện, lãi suất giao dịch trái phiếu Chính phủ trên thị trường sơ cấp tăng 1,07-2,3% một năm so với đầu năm nay. Còn trên thị trường thứ cấp, lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng tăng mạnh, 2,79-3,27% một năm tuỳ kỳ hạn vay 5-30 năm so với hồi đầu năm. Điều này ảnh hưởng tới kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ 2022.
Bên cạnh đó, sức ép giảm giá của đồng Việt Nam ảnh hưởng nghĩa vụ trả nợ, nhất là với nợ bằng đô la Mỹ. Điều này gây rủi ro thực hiện các chỉ tiêu an toàn nợ công, nợ nước ngoài quốc gia.