Cùng với nhiều nghề thủ công truyền thống trên đất nước Việt Nam, nghề kim hoàn được biết đến với sự sáng lập của hai vị tổ sư Cao Đình Độ và Cao Đình Hương ngay trên vùng đất Cố đô Huế. Tài năng của các ông đã biến nghề kim hoàn trở thành một nghề thủ công độc đáo, mang đậm phong cách Việt và được truyền bá khắp ba miền đất nước trong hơn hai thế kỉ qua.
Hành trình tìm về nguồn cội
Ngày 18/2, Hội Mỹ nghệ kim hoàn đá quý Việt Nam đã tổ chức lễ dâng hương báo công Ông tổ nghề kim hoàn Cao Đình Độ. Buổi lễ diễn ra long trọng tại khu lăng mộ Tổ nghề kim hoàn Cao Đình Độ, phường Trường An, thành phố Huế. Đây là hoạt động thường niên của Trung ương Hội tổ chức lễ báo công cũng như tưởng nhớ công ơn của Ông tổ nghề kim hoàn.
Trở về nơi nguồn cội nghề kim hoàn, đoàn cán bộ Hội cùng nhau tìm hiểu, ôn lại những giai đoạn lịch sử thăng trầm của ngành và Ông tổ nghề. Vị Đệ nhất tổ sư Cao Đình Độ sinh năm Giáp Thìn (1744), tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và được truyền thụ nền giáo dục Nho giáo, lớn lên ông làm nghề bịt đồng. Vào thời đó, nghề kim hoàn ở nước ta chỉ mới phôi thai, dân ta chưa có ai thành thạo nghề này. Các vật dụng quý, đồ trang sức của vua chúa hay quan lại đều phải thuê thợ kim hoàn người Trung Quốc chế tác. Những người thợ này, hoặc theo thuyền buôn sang thông thương, hoặc xin trú ngụ để hành nghề. Họ giấu nghề rất kỹ, không cho người địa phương biết để giữ độc quyền hành nghề.
Trong hoàn cảnh đó, với niềm đam mê lớn trong người thợ trẻ Cao Đình Độ muốn trở thành một người thợ kim hoàn xuất sắc, ngày đêm luôn thôi thúc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề kim hoàn, ông phải dành nhiều thời gian học tiếng Hoa, theo dõi lối sinh hoạt, giao thiệp của họ, cải trang thành người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc trong cả nước.
Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo, đủ sức tranh tài với những thợ kim hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.
Năm Quý Mão (1783), ông cùng vợ con men theo bờ biển vào Nam và dừng chân lập nghiệp tại làng Kế Môn (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Tại đây, ông đã truyền nghề cho con trai mình là Cao Đình Hương. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, Cao Đình Hương tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một người thợ thành thục trong nghề kim hoàn tại Thuận Hóa. Và ông Cao Đình Độ còn truyền nghề cho một số học trò thuộc hai họ Huynh Công và Trần Mạnh. Về sau, hai họ Huynh, Trần tiếp tục truyền nghề lại cho con cháu.
Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh binh, phó Lãnh binh là Cao Đình Hương. Thời gian này, gia đình ông sống tại làng Cao Hậu, huyện Hương Trà (nay là phường Hương Sơ, thành phố Huế). Vào ngày 28/2/1810, ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi, được nhà vua và triều đình truy phong tước hiệu: “Đệ nhất tổ sư” và ban đất xây lăng mộ như các quan đại thần tại ấp Trường Cởi (nay là phường Trường An, thành phố Huế).
Theo lời thầy dặn, 6 đệ tử của ông Cao Đình Hương đã chia nhau làm hai hướng để truyền nghề kim hoàn trong thiên hạ. Ba anh em họ Trần ngược ra Bắc Hà, đến Thăng Long mở lò thợ bạc, thu nhận đệ tử. Ba anh em họ Huynh lại xuôi vào Nam, đến Phan Thiết, do một người bị qua đời, hai người còn lại dừng chân luôn tại đây để mở lò dạy nghề. Do đó, thợ kim hoàn ở Phan Thiết xem ba anh em họ Huynh là tổ sư nghề kim hoàn. Được tin ba anh em họ Huynh dừng chân ở Phan Thiết, ba anh em họ Trần sau khi truyền nghề ở phía Bắc, tiếp tục hành trình xuôi vào Nam và điểm dừng chân của họ là Chợ Lớn, mở lò thợ bạc, truyền nghề cho đệ tử khắp miền lục tỉnh.
Từ sự truyền nghề của các vị Tổ sư, nghề kim hoàn ngày nay trở thành một ngành nghề thủ công truyền thống được ưa chuộng, không chỉ vì giá trị kinh tế mà còn cả trình độ thẩm mỹ của những mặt hàng kim hoàn chứa đựng nhiều sắc thái Việt.
“Kim trầm lệ thủy, ngân xuất châu đê”
Tín ngưỡng thờ tổ nghề kim hoàn là tín ngưỡng dân gian của những người làm nghề thợ bạc, đá quý, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, đồng thời cũng tạo cho hội nghề nghiệp sự liên kết để hỗ trợ nhau phát triển. Tại Hội An, tính cộng đồng và gắn kết của nghề kim hoàn những năm trước 1975 mạnh đến mức, trong ngày này, nếu tiệm vàng nào không đến giỗ tổ sẽ bị cả nghiệp đoàn tẩy chay, không thừa nhận giá trị sản phẩm của tiệm vàng đó trong giao dịch. Ngày 25/2 (nhằm mùng 6/2 âm lịch) Ban quản trị Đền thờ tổ nghề thợ bạc Lệ Châu Hội Quán cùng Hội Mỹ nghệ kim hoàn đá quý TP.HCM tổ chức Lễ giỗ lần thứ 213, ngày mất của Ông tổ nghề thợ bạc (1810 – 2023). Buổi lễ được tổ chức trang trọng thể hiện tấm lòng thành kính của thế hệ làm nghề đối với Ông tổ nghề.
Vào những năm cuối thế kỷ 19, tại Gia Định – Chợ Lớn và các vùng lân cận, nghề kim hoàn đã rất phát đạt. Từ trước năm 1892, thợ kim hoàn tại khu vực Chợ lớn thường tập hợp ở các lò chế tác nữ trang, vì lúc này các tiệm vàng chuyên bán nữ trang chưa có. Càng ngày nghề thợ bạc càng phát triển nên nhiều người có sáng kiến lập một ngôi nhà tổ nghiệp kim hoàn, để con cháu đời sau biết đến nghề của ông cha mình. Năm 1892, nhà thờ tổ được tiến hành xây cất qua nhiều lần sửa chữa, tu bổ, đến năm 1896 mới hoàn thành và tạm gọi là: “Nhà thờ tổ kim hoàn”. Cho đến đợt trùng tu vào năm 1934, ngôi đền được dựng bằng gỗ lim, mái ngói móc lợp theo kiểu âm dương. Phía trước đền có bộ cửa sắt bao bọc, trên vòm cửa có bốn chữ Lệ Châu Hội Quán được đúc bằng đồng. Đền thờ Lệ Châu được đặt tên như vậy là do xuất phát từ câu: “Kim trầm lệ thủy, ngân xuất châu đê” (có nghĩa vàng chìm sông lệ, bạc xuất bờ châu).
Lệ Châu Hội Quán có bốn tấm bia nằm đăng đối nhau hai bên vách chính điện. Trên các tấm bia ghi tên người, tên hiệu, tên địa phương của những người làm nghề thợ bạc và số tiền đóng góp cho hội quán ở khắp vùng lục tỉnh xưa kia. Lệ Châu Hội Quán trải qua nhiều thăng trầm của biến cố lịch sử. Tuy nhiên, bắt đầu từ lúc mới gầy dựng qua các bước tiến của nghề nghiệp, của sự đoàn kết giữa chủ và thợ mà Lệ Châu Hội Quán luôn được tu bổ, bảo quản trọn vẹn như ngày nay.
Hằng năm, Lệ Châu Hội Quán tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm tổ sư nghề thợ bạc từ mùng 6 – 8 Âm lịch, quy tụ nhiều đoàn thể ngành kim hoàn ở các tỉnh, thành. Ngày chính tế vào 7/2 âm lịch là ngày mất của tổ sư Cao Đình Hương. Một điều đặc biệt là ngày cúng tổ nghiệp của thợ kim hoàn tại Campuchia, Lào và Thái Lan cũng trùng hợp với dịp cúng tế ở Việt Nam.
Mặc dù mùng 7 mới là chánh lễ, nhưng việc cúng tế được chuẩn bị trước đó khoảng 2 tuần. Các vị trong Ban quản trị Lệ Châu Hội Quán tổ chức buổi Hội nghị báo cáo tình hình hoạt động trong năm trước, đồng thời phân công trác nhiệm từng người phụ trách lễ giỗ. Song không phải ai cũng lo việc cúng tế, mà phải là những người đã qua lớp Tổng lý – chuyên trách phụ cúng kiếng, nhang đèn vào các dịp lễ, mỗi Tổng lý chỉ lo việc cúng tế trong một năm.
Mở màn giỗ tổ là tối mùng 6/2 với nghi thức cúng cầu quốc thái dân an, tuyên đọc sắc phong tổ sư thợ bạc Việt Nam của các vị vua Triều Nguyễn để người trong nghề hiểu biết xuất xứ của tổ nghề. Ngày chánh tế mùng 7/2, cúng ba “Viên” theo nghi thức lễ giỗ truyền thống. Viên thứ nhất cúng Chấp minh vào 8 giờ sáng để rước tổ sư. Viên thứ hai cúng Chánh tế tổ sư từ 22 – 24 giờ. Viên thứ ba diễn ra vào 16 giờ ngày 8/2, tế nghĩa từ – những người có công xây dựng Lệ Châu Hội Quán. Viên là cách gọi về mỗi phần lễ. Viên được tiến hành theo nghi thức cổ truyền, dâng phẩm vật như trà, bánh, trái cây, heo quay…
Những thành viên Ban quản trị trong bộ lễ phục áo dài khăn đóng, đứng trước Bài vị Tổ sư vái lạy. Bên trong đền, những người thợ bạc thắp hương và dâng mâm hoa quả xếp hình long, lân, quy, phụng với tấm lòng thành kính, biết ơn người đã có công truyền dạy nghề cho con cháu, giúp ích cho xã hội và mang lại cuộc sống ấm no cho gia đình họ. Lệ Châu Hội Quán là nơi mà thợ kim hoàn tìm thấy một sức mạnh tinh thần để có thêm niềm tin đối với bản thân cũng như nghề nghiệp.
Ngoài các hoạt động giỗ tổ ngành nghề kim hoàn tại Lệ Châu Hội Quán và Ban quản trị Nhà thờ tổ nghề kim hoàn khu vực Bà Chiểu – Gò Vấp – Thị Nghè cũng tổ chức các hoạt động ủy lão, thăm chúc tết các cụ cao niên nghề kim hoàn trên địa bàn Thành phố. Đồng thời, sau khi tổ chức Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn tại TP.HCM, thành viên trong Ban quản trị Lệ Châu Hội Quán phân công các đoàn đi thăm viếng, trả lễ các đền thờ, hội quán ngành kim hoàn ở nhiều tỉnh thành miền Đông Nam Bộ/.
Trọng Tấn